Giao kết Hợp đồng tín dụng với ngân hàng khi Khách hàng không biết đọc, không biết viết chữ
Khách hàng A có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng nhưng Khách hàng A không biết đọc, không biết viết chữ (Khách hàng A không có quyết định của Tòa án về việc mất năng lực hành vi dân sự/hạn chế năng lực hành vi dân sự/có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi dân sự). Vậy KH A có thể giao kết Hợp đồng tín dụng với ngân hàng không?
- Quy định của pháp luật:
– Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự:
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
– Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Điều kiện có hiệu lực của Giao dịch dân sự:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
– Khoản 4 Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”.
– Khoản 1 Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đối với Khách hàng quy định:
“Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau đây:
1. Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.”
– Khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“2. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.”
– Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần…
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
– Khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”
– Khoản 1,2 Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự:
“1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.”
– Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
->Như vậy, theo các quy định của pháp luật nêu trên thì:
– Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện: (i) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; (ii) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; (iii) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
-Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
– Một trong các điều kiện xem xét, quyết định cho vay vốn đối với Khách hàng cá nhân là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
– Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật Dân sự 2015.
– Để xác định 1 cá nhân (i) bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc (ii) bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc (iii) có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải trên cơ sở có quyết định của Tòa án có thẩm quyền.
2. Ý kiến tư vấn:
– Theo thông tin, Khách hàng A không biết đọc, không biết viết chữ. Khách hàng A không có quyết định của Tòa án về việc mất năng lực hành vi dân sự/hạn chế năng lực hành vi dân sự/có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi dân sự, do đó, về nguyên tắc có thể xác định Khách hàng A là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
– Trường hợp Khách hàng A không biết đọc, không biết viết chữ thì khi giao kết Hợp đồng tín dụng, sau khi đại diện giao kết hợp đồng của ngân hàng đã đọc cho Khách hàng A hiểu rõ nội dung Hợp đồng tín dụng, đã đồng ý và chấp nhận giao kết Hợp đồng tín dụng, thì Khách hàng A có thể điểm chỉ vào từng trang hợp đồng tín dụng và điểm chỉ tại phần ký của Bên vay. Các bên có thể có thêm phần ký, xác nhận của người làm chứng (bên thứ ba không phải là các bên giao kết hợp đồng tín dụng và không liên quan đến giao dịch vay vốn) để làm chứng cho việc xác lập và ký kết Hợp đồng tín dụng, theo đó, người làm chứng sẽ ký vào từng trang của Hợp đồng tín dụng và xác nhận nội dung: (i) xác nhận về việc đại diện ngân hàng đã đọc và giải thích toàn bộ nội dung Hợp đồng tín dụng cho khách hàng A; (ii) khách hàng A xác nhận đã nghe đọc và giải thích đầy đủ, hiểu rõ, đồng ý với toàn bộ nội dung của Hợp đồng tín dụng và đã tự nguyện điểm chỉ trước sự chứng kiến của người làm chứng.
– Để đảm bảo giao dịch minh bạch, các bên cũng có thể thỏa thuận lựa chọn việc thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng tín dụng hoặc lập vi bằng ghi nhận việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên thông qua dịch vụ Thừa phát lại. Tuy nhiên, với việc thực hiện thủ tục này cần xác định sẽ phát sinh chi phí cho các bên.
Trên đây là ý kiến tư vấn của BMP GROUP LAW, nếu Quý Khách Hàng có nhu cầu tư vấn pháp lý về các trường hợp/tình huống cụ thể của Quý Khách Hàng, hãy liên hệ với BMP GROUP LAW để được hỗ trợ tư vấn qua email: bmplawf@gmail.com hoặc hotline: 0888 374 068.
BMP GROUP LAW hân hạnh được phục vụ Quý Khách Hàng.









